Tuesday, January 31, 2012

Trí thức là cái chi chi?

Trí thức là cái chi chi?

Có những cái, chỉ khi ta đã đánh mất thì mới ý thức được sự tồn tại trước đó của nó. Đạo đức là một ví dụ. Một xã hội lương hảo ai bàn chuyện đạo đức mà làm chi.

Trí thức cũng là một khái niệm tương tự. Theo nghĩa, không ai có thể tự gán cho mình danh nghĩa trí thức được cả. Trí thức là sự cảm nhận của người khác, là sự quan sát, nhận định từ bên ngoài, đánh giá một con người dựa vào những tiêu chí mà người quan sát, nhận định có sẵn trong đầu. Nếu không thấy được cái đặc điểm này thì cứ tranh cãi miết không dứt về hai chữ trí thức.

Chúng ta hãy đi từ những ví dụ quanh mình cho dễ thấy. Một vị giáo sư đại học khả kính, viết thiên kinh vạn quyển, đi khắp nơi để diễn thuyết, nói chung ai nấy đều xem là một nhà trí thức hàng đầu. Thế nhưng có ai thử hỏi hàng xóm sẽ nghe người ta dè bỉu: trí thức gì lão ấy, lão đối xử với bố mẹ như tôi tớ, chuyên đánh vợ như cơm bữa. Thế là trong cảm nhận của người láng giềng, ông giáo sư không phải là trí thức cho dù cả ngàn người khác nghĩ ngược lại. Cả hai đều đúng và ông giáo sư ấy vừa là trí thức vừa không xứng đáng là trí thức. Chuyện này không có gì mâu thuẫn hay ba phải cả vì như đã nói, trí thức là cái cảm nhận chứ đâu phải hàm tước gì mà đạt hay không đạt.

Như vậy lao động trí óc là điều kiện cần nhưng chưa đủ. Cái điều kiện đủ nó rất phong phú, tùy thuộc vào sự cảm nhận của người đánh giá. Với người này, đó là phong cách sống, là ứng xử với thế sự và nhân cách con người. Với người khác, nó có thể đơn giản là trách nhiệm với gia đình, với mọi người chung quanh. Nhưng với xã hội lớn nói chung, cái điều kiện đủ đó chính là sự minh định rõ ràng tư thế, quan niệm, lập trường trước các vấn đề của xã hội. Nó không phải đơn thuần là sự phản biện (hiểu theo nghĩa cứ ai chăm chăm phê phán nhà nước là trí thức thì nông cạn quá). Phản biện chỉ là một phần và là một phần quan trọng trong tâm thế của một con người trước muôn vàn vấn đề của cuộc sống.

Và ở đây cũng phải trở lại mấu chốt nói ở đầu bài: trí thức hay không là sự cảm nhận của người khác. Vì thế một người phản biện gay gắt một chủ trương của nhà nước có thể được đánh giá là tri thức sáng suốt, dũng cảm với người này nhưng bị xem là mù quáng, là mị dân với người khác. Một người lên tiếng ủng hộ giới cầm quyền có thể được ca ngợi là trí thức có trách nhiệm bởi một số người nhưng bị chê bai bởi nhiều người khác. Đó hoàn toàn là chuyện bình thường.

Vậy, vấn đề là tầm cỡ trí thức của một nước sẽ lớn cùng với nhận thức của dân chúng. Càng nhiều người cảm nhận đúng (cũng là một sự chủ quan của người viết – nhưng sự đúng đắn ở đây dựa vào các giá trị phổ quát toàn thế giới) thì đất nước càng có nhiều trí thức trong tâm tưởng của dân chúng nếu những người có điều kiện cần sẵn sàng dấn thân trước những vấn đề là điều kiện đủ (tức là nhu cầu của người dân, đòi hỏi của người dân với giới trí thức).

Bổ sung: Ở những nước đang phát triển như Việt Nam, ngổn ngang nhiều vấn đề, tâm thế dấn thân càng có tầm quan trọng. Bởi xã hội khi đối diện trước những vấn đề mới đều cần có những người nói lên những quan điểm rõ ràng giúp người dân nhận diện đúng sai. Vì thế, vai trò của người trí thức thường là người đứng ngoài vòng đặc quyền để chất vấn mọi chuyện, tức vừa từ bỏ vị trí đặc quyền để khỏi xung đột lợi ích, vừa có cam đảm để lên tiếng cho xã hội, bất kể tiếng nói đó có làm giới cầm quyền hài lòng hay không. Người trí thức làm tất cả những điều đó như một công việc bên ngoài nghề nghiệp chính của họ. Một bác sĩ chữa bệnh, một nhà văn viết sách không ai xem đó là hoạt động của nhà trí thức. Đó là hoạt động nghề nghiệp đương nhiên của họ.


Link to full article

No comments:

Post a Comment

Popular Posts